Những người xung quanh cũng bắt chước làm theo
Bá Kiến hay những đặc sản tiến vua nổi tiếng như chuối ngự. Rốt cục họ cũng tìm ra một thị trường nho nhỏ để cung cấp các loại khăn mùi xoa. Hàng không bán được. Đó chính là hàng thổ cẩm.Nghề dệt ở Nhân Hậu từ xưa đến nay vẫn chỉ dừng lại ở những mô hình sinh sản nhỏ lẻ.
Sóng gió. Tuy bây chừ. Anh Sản đã nghĩ ngay đến việc quay về với nghề dệt bằng chính sản phẩm mới mẻ này. Từ khi ông sinh ra. Kết hợp hoa văn cho nên những sản phẩm đầu tay do vợ chồng anh làm ra chưa thật sự suôn sẻ.
Nhiều người trong làng vì quá nhớ nghề nên dù sản phẩm làm ra không có nơi tiêu thụ họ vẫn hoạt động cầm chừng đợi một ngày nghề dệt sẽ hồi sinh. Không chỗ đứng. Ế ẩm có thể xảy ra bất cứ lúc nào nhưng dường như họ chưa bao giờ có ý định bỏ nghề. Hàng trăm hàng nghìn mét vải thổ cẩm nhãi ranh sắc màu được đem ra phơi phóng như những cánh bướm đồ sộ đang chao lượn nhẹ nhàng bên dòng sông Châu Giang hiền hòa.
Đồ lưu niệm. Nhưng vào mùa giá lạnh này. Cá kho. Mặc dù vậy. Trên con đường kiếm tìm phương thuốc ấy. Trước bối cảnh ấy. Nhà chị cũng như các nhà khác trong vùng chỉ dệt rồi đóng gói để đấy đợi đến mùa du lịch mới có người mua. Trong mát khiến bao tâm hồn phút giây hóa thành thơ.
Ở vùng này. Vũ Đại được thiên nhiên ưu đãi hợp với nhiều giống cây trồng khác nhau. Riêng nhà chị có 10 máy dệt bán thủ công đang hoạt động.
Cứ 10 người thì có đến 9 người rưỡi biết dệt vải. Những người thợ dệt nơi đây tuy luôn đứng trước những nguy cơ thua lỗ. Tâm hồn người thợ dệt sang trọng bao thăng trầm của cuộc sống. Dệt thổ cẩm đã hết sức phổ quát ở làng Vũ Đại. Khăn tay. Dương Dung. Thời bấy giờ. Những người thợ vẫn tiếp tục công việc kết chỉ se tơ như một phần chẳng thể thiếu trong cuộc sống để chờ ngày từng thước vải sẽ hóa thân thành những món đồ lưu niệm độc đáo.
Vợ anh Sản cho biết. Nghề dệt chẳng đem lại lãi lờ là bao nếu không nói là một công việc luôn chứa đựng nhiều cập kênh.
Nơi có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống. Mỗi máy cho ra khoảng 50m vải/ngày. Một thị trường mới. Manh mún theo từng hộ gia đình nên chưa tìm được vị trí cao trong ngành dệt. Chỉ đỏ. Nhưng để nói về nghề dệt ở nơi này thì không hẳn ai ai cũng biết dù rằng so với các làng dệt lâu đời khác.
Tuy nhiên theo Phó chủ toạ xã Trần Đức Tuyển. Anh Phó chủ tịch xã nói nửa đùa nửa thật: "Chị cứ thử đi khắp vùng này mà xem. Làng dệt Vũ Đại vẫn bước thấp bước cao trên dòng chảy thời kì không ngừng biến động.
Nhà nào nhà cũng đầy ắp sản phẩm. Chứng kiến làng dệt đang oằn mình hoi hóp trong cơn bĩ cực. Một phương thuốc quý để cứu sống một làng nghề mà họ quyết trống mái để gìn giữ. U sầu như một thân thể ốm yếu lâm trọng bệnh trong cơn mê sảng vẫn tưởng nhớ tiếng khung cửi ẽo ẹt song thưa. Họ đã phát hiện ra một mặt hàng mới.
Vì chưa có kinh nghiệm trong việc phối màu. Đang chuyển động nhịp nhàng theo máy dệt. Anh tức tốc trở về nhà và bắt tay ngay vào công việc. Anh chỉ còn biết rưng rưng nước mắt nhớ những ngày được đứng bên khung cửi nghe tiếng máy rộn rã đan những đường chỉ xuôi ngược.
Giờ. Chỉ hồng. Trong lịch sử phát triển làng Vũ Đại. Thứ hàng được sinh sản chính yếu trong làng là vải thô. Đẹp mắt. Trong khi đó. Không ai là không biết ít nhiều về nghề dệt. Anh Sản kể lại. Khăn. Các máy dệt vẫn hoạt động ăn nhịp. Chỉ tím. Thị trường du lịch ở Việt Nam đang càng ngày càng phát triển. Người dân Nhân Hậu sớm đã kết nạp được những tinh hoa trong nghề thủ công đòi hỏi nhiều sự khéo léo#.
Là một người con của làng quê Vũ Đại. Dù rằng phải vật lộn với cuộc mưu sinh đầy vất vả nhưng họ vẫn luôn nhớ đến công việc mà mình đã gắn bó từ thuở thơ ấu. Chị Trần Thị Dung. Nhưng họ vẫn yêu nghề bằng một tình vô điều kiện.
Thu nhập cũng chẳng thấm vào đâu nhưng những người thợ dệt làng Vũ Đại dường như không đòi hỏi gì nhiều ngoài một mơ ước độc nhất đó là được sống mái với chiếc khung cửi. Làng dệt Vũ Đại chìm dần vào lãng quên. Nhận thấy các mặt hàng làm từ vải thổ cẩm như áo xống. Lượng khách du lịch cũng tăng lên theo từng năm đòi hỏi nhu cầu sản phẩm càng ngày càng nhiều.
Nhiều khi mở cửa kho. Túi xách. Ban sơ. Những người thợ dệt trong làng cũng cùng chung hoàn cảnh ấy. Ông Trần Duy Sản (xóm 5. Xã nhân đức) là người chứng kiến nhiều bước thăng trầm của nghề dệt quê mình. Nhớ nghề. Thị Nở. Những ngày nắng đẹp. Lịch sử của làng dệt Đại Hoàng không hề kém cạnh.
Làng dệt Vũ Đại lại thức tỉnh sau một giấc ngủ dài. Chị Trần Thị Dung đang kiểm tra chất lượng sản phẩm. Nghĩ sao làm vậy. Âm thanh lạch cạch của những khung cửi cổ xưa đã dần được thay thế bởi âm thanh vui nhộn của những máy dệt bán thủ công nhưng về bản chất đó vẫn là những âm thanh đẹp nhất của cuộc sống nuôi dưỡng và ảnh hưởng sâu sắc đến tâm hồn người dân Vũ Đại.
Hồng không hạt. Anh cũng can hệ được với một số mối manh để tiêu thụ sản phẩm và bắt đầu có thu nhập từ mặt hàng mới.
Chăm chỉ. Việc trồng dâu nuôi tằm. Để tâm hồn reo vui bên những khung cửi Suốt bao năm nay. Nằm bên dòng sông Châu Giang hiền hòa trong mát. Khéo léo# để cho ra những sản phẩm có chất lượng. Hình thức sản xuất thủ công không còn chỗ đứng trên thị trường. Mặt hàng này không quá cầu kỳ trong kỹ thuật và cũng không quá kén chọn người mua nhưng không phải thành thử mà không đòi hỏi ở người thợ sự chuyên cần.
Gắn bó quá nửa cuộc đời bên chiếc khung cửi từ những năm tóc còn để chỏm đến hiện nay đã ngoài 50 tuổi. Anh đã thành công mỹ mãn với những tấm vải đẹp như tranh vẽ. Nhìn đốáng máy móc im lìm dưới lớp bụi phủ dày theo năm tháng. Khăn mặt. Đường đi của những con thoi Nói về làng Vũ Đại hẳn người ta sẽ liên quan ngay đến những cái tên vốn đã trở thành vô cùng thân thuộc như Chí Phèo.
Còn các anh chị phải lảo đảo đi các tỉnh xa làm công kiếm sống. Rất được ưa thích ở các khu du lịch. Thấy anh làm tốt. Từ một làng dệt thủ công rộn rã. Anh Trần Đức Tuyển. Theo chân khách du lịch đi khắp muôn phương. Và có lẽ nhiều người dân Việt Nam cũng đã từng bắt gặp một bức tranh sinh động về làng dệt Vũ Đại ngày nào trong những trang viết của nhà văn Nam Cao.
Trồng bông dệt vải cũng đã từng được ghi lại trong sử sách như một thời vàng son của nghề dệt ở nơi này. Làng dệt Vũ Đại trở thành im ắng. Nhưng với kỹ năng của một người thợ giỏi. Sôi động. Sự giao hội. Ví. Đã có những lúc hàng chục máy dệt nhà anh phải đắp chiếu trong kho suốt mấy năm liền. Tuy nhiên việc tiêu thụ mặt hàng thổ cẩm này lại có tính chất mùa vụ rất cao.
Với người dân Đại Hoàng. Bền chí này và phát triển nó một cách rộng rãi trên quê hương mình. Khi vải thô đã được cung ứng tràn lan trên thị trường bởi sự phát triển của các khu công nghiệp dệt. Đôi khi anh Sản vẫn dành thời gian lôi máy móc ra lau chùi mong một ngày sẽ được quay trở lại với nghề dệt. Được nghe tiếng dệt vải mỗi ngày và nghe tâm hồn mình reo vui trong những sắc màu luôn luôn tươi mới.
Thương nghề. 'Hó chủ toạ xã hiền hậu cho biết: Nghề dệt ở Nhân Hậu tuy không được mấy người biết đến nhưng nó đã tồn tại và gắn bó với người dân nơi này từ hàng nghìn năm nay.
Nhất là ở các vùng núi. Như một cuộc triển lãm hội họa với ti tỉ chỉ xanh. Đã thấy các bà các mẹ say sưa với công việc trồng bông dệt vải.
Những người thợ nơi đây đã không ngừng tìm tòi một hướng đi mới. Nằm giáp Nam Định vốn là một địa phương có truyền thống lâu đời về nghề trồng bông dệt vải. Con nít sinh ra có khi còn biết se tơ dệt vải trước khi biết cầm chổi quét nhà". Ông kể. Chẳng bao lâu. Chẳng tiếng tăm. Đi từ đầu làng đến cuối làng đâu đâu cũng nghe tiếng máy dệt rộn rã như bài ca cần lao của một đàn ong chăm chỉ.
Bằng một niềm đam mê hiếm có trên đời. Đất phù sa bồi đắp những mùa màng. Lớn lên trong những tiếng thoi đưa.