Tất tật các bộ phận của cây, đều có thể sử dụng làm thuốc chữa bệnh
- Chữa sán khí (sa đì): Dùng vỏ rễ hồng bì 60g, tiểu tã lót 15g, sắc lấy nước, thêm chút rượu trắng vào uống ấm, ngày 1-2 lần. - Chữa ho gà: Dùng quả quất hồng bì, vỏ rễ dâu, cam thảo, mỗi thứ 10-12g, sắc nước uống trong ngày. Rễ còn dùng chữa cảm mạo, tê thấp, dùng cho phụ nữ sau khi đẻ. Có tác dụng chống ho, long đờm, kích thích tiêu hóa, cầm nôn. - Chữa đau thắt dưới tim hoặc giun đũa chòi lên: Dùng quả quất hồng bì tươi, nhai và nuốt cả vỏ.
Trong điều kiện gia đình, có thể sử dụng quất hồng bì để chữa trị một số chứng bệnh theo những phương pháp như sau: - đề phòng cảm cúm: (1) Dùng lá hồng bì khô 6-10g (hoặc 20-30g tươi), sắc uống, liên tục 3-6 ngày. ) Skeels [Clausena wampi (Blanco) Oliv. - Chữa đau bao tử, đau bụng co thắt: Dùng hạt hồng bì, phơi hay sấy khô = sao thơm, tán mịn ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 6-10g; chiêu bằng nước hoặc rượu nhạt.
Lá thường dùng tươi hoặc phơi khô, dùng làm thuốc với tên “hoàng bì diệp”; Quả có thể dùng tươi hoặc hái về, để nguyên hay bổ dọc, phơi nắng hay sấy khô, dùng làm thuốc với tên “hoàng bì quả”; hạt dùng làm thuốc với tên “hoàng bì quả hạch”; rễ gọi là “ hoàng bì căn”; vỏ rễ gọi là “hoàng bì căn bì”,.
- Chữa ho do ngoại cảm (ho gió): Dùng vài quả hồng bì (khoảng 20-30g), bổ đôi, hấp với đường, chia ra ăn trong ngày. Quả màu vàng, hình cầu, đường kính 15mm, có lông, 1-2 ngăn, chứa một hạt to; thịt quả ngọt thơm. ]. + Quả (hoàng bì quả) có vị ngọt và chua, tính bình hơi ấm.
+ Hạt (hoàng bì quả hạch) và rễ (hoàng bì căn) có vị đắng, cay, the, tính ấm. Lá kép mọc so le, gồm 5-13 lá chét, hình trái xoan, lá chét cuối hình trứng; nguyên hay hơi khía tai bèo, đầu nhọn, phía cuống lá hơi lệch; có nhiều điểm tuyến chứa dầu. Có tác dụng giảm đau, thúc đẩy tiêu hóa, dùng chữa đau dạ dày, đau vùng thượng vị, đau bụng co thắt. Dùng chữa tiêu hóa kém, buồn nôn, ho, ho gà.
Về mặt thực vật, quất hồng bì là một loại cây gỗ, cao 3-5m, cành non hơi ráp, sần do có nhiều hạch (tuyến). Thuộc họ Cam quít (Rutaceae). Liều dùng hàng ngày 20-40g
Theo Đông y: + Lá (hoàng bì diệp) có vị đắng và cay, tính bình hơi ấm; Có tác dụng giải cảm, hạ sốt, long đờm và giảm ho.Hạt còn chữa rắn cắn. Hoa trắng mọc thành chùy ở ngọn, chùy thưa hoa, dài 25-50cm. Mùa hoa: tháng 4; mùa quả: 6-10.
Dân gian thường dùng để nấu nước gội đầu, cho sạch gầu và mượt tóc. - Chữa rắn cắn: Dùng hạt quất hồng bì nhai nát, nuốt nước, bã đắp lên nơi rắn cắn. Hồng bì là loài cây “thực dược lưỡng dụng” – vừa làm thực phẩm vừa làm thuốc. - Bí tiểu tiện: Dùng lá quất hồng bì 4-5 lá, rượu 30-40ml, thêm nước sắc uống. Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy: Lá quất hồng bì có tác dụng bảo vệ tế bào gan; hạ đường huyết và lipid huyết; kìm hãm sự phát triển của một đôi chủng ký sinh trùng sốt rét, tụ cầu vàng và một số vi khuẩn gây bệnh đường ruột.
Theo một thông báo về kết quả thí điểm lâm sàng: dùng hồng bì để điều trị lỵ amíp và lỵ trực trùng (phối hợp với khổ luyện tử, hòe hoa) cho kết quả tốt hơn thuốc tây ganidan và tetracyclin. Cây còn có tên là “quất quất hồng bì”, “hoàng bì” , “kim đạn tử”, “do bì”, “do mai”,.
Quất hồng bì là loài cây “thực dược lưỡng dụng” – vừa làm thực phẩm vừa làm thuốc. Dùng chữa cảm mạo, sốt, sốt rét, ho. Hoặc dùng 20g quả khô (hay 50g quả tươi) sắc nước uống vào lúc đói. Hoặc dùng “Hoàng bì long nhãn diệp thang”: Lá quất hồng bì, lá nhãn, mỗi thứ 30g, dã cúc hoa 15g, sắc nước uống, mỗi tuần 3 lần. Liều dùng hàng ngày: hạt 6-10g; rễ 10-20g.
Liều dùng hàng ngày 6-10g quả khô. + Đáp : quất hồng bì là loài cây được trồng ở nhiều tỉnh miền Bắc nước ta để lấy quả ăn. Tên khoa học là Clausena lansium (Lour.