Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2013

còn rất nóng Quả đào sinh tân, hoạt huyết.

Dùng cho các trường hợp hen suyễn, viêm khí phế quản, cảm nắng, sốt khát nước, táo bón, bế kinh, chấn thương đụng dập

Quả đào sinh tân, hoạt huyết

Xirô đào quả, đào nhân:  đào chín 2 quả gọt vỏ ngoài, tách bỏ hạt, nhân hạt đào 9g, xirô 30g. Trị ứ huyết tắc kinh. Bài 2:  đào nhân 12g, xuyên khung 6g, gừng thán 6g, đương quy 12g, cam thảo 4g. Theo Đông y, thịt quả đào vị ngọt chua, tính ôn, vào can, trường vị. Ăn mỗi ngày 1 lần. Nhuận trường thông tiện:  hạnh nhân 12g, đào nhân 12g, hỏa ma nhân 12g, đương quy 12g, sinh địa 16g, chỉ xác 12g.

Dùng cho các trường hợp cảm nóng, cảm nắng, mất nước, khát nước. Người thường nhật nếu ăn hàng ngày có tác dụng tăng cường trí óc, bảo vệ sức khỏe, phòng trị tăng áp huyết, bệnh mạch vành, cơn đau tim.

Cháo đào nhân:  đào nhân 50g, gạo tẻ 60g, nấu cháo (ăn bữa sáng và tối). Đào gọt vỏ ngoài, tách bỏ hạt cùng đào nhân xay nhuyễn, thêm xirô, chưng cách thủy cho chín nhừ.

Kiêng kỵ:     Không nấu bếp với thịt ba ba, rùa. Đào là loại quả ngon, tác dụng sinh tân nhuận trường hoạt huyết, tốt cho người sốt cao, táo bón, chấn thương đụng dập.

Trị sau khi đẻ ứ huyết, đau bụng. Đào hoa (hoa và nụ đào) vị khổ tính bình, công năng lợi thủy, hoạt huyết, thông tiện. Cháo đào nhân tăng cường trí tuệ, bảo vệ sức khỏe, phòng trị tăng áp huyết, bệnh mạch vành, cơn đau tim. Thoát mủ, tiêu nhọt:   Bài 1:  đại hoàng 12g, mẫu đơn bì 16g, đào nhân 12g, đông qua tử 12g, mang tiêu 12g.

TS. Tác dụng hoạt huyết trừ ứ, nhuận tràng. Sắc uống. Dùng cho các trường hợp bế kinh, kinh ít. Mỗi lần uống 8g, ngày uống 2 lần hoặc sắc nước uống. Dùng khi đi ngoài khó khăn. Dùng trợ tiêu hóa, kiện vị, nhuận trường

Quả đào sinh tân, hoạt huyết

Liều dùng, cách dùng: 2 - 6 quả tươi hoặc mứt khô; đào nhân 6 - 12g. Chữa phù thũng, cước khí, đàm ẩm:   đào hoa (phơi âm can) 30g, giã nát hòa với ít rượu để uống. Sắc nước. Một số bài thuốc trị bệnh có dùng đào    Hoạt huyết thông kinh:   Bài 1:  đào nhân 12g, hồng hoa 6g, tam lăng 8g, đương quy 12g.

Bài 2:  đào nhân 12g, hồng hoa 12g, đương quy 12g, đan sâm 12g, xuyên khung 12g, xích thược 12g, ngưu tất 12g, kim ngân hoa 12g, huyền sâm 12g, địa miết trùng 8g, tam lăng 8g, nga truật 8g, giun đất 12g, đỉa 4g, manh trùng 4g, cam thảo sống 4g. Dùng cho các trường hợp suy hô hấp thở gấp, hen kinh niên. Trị chấn thương do ngã, bị đánh. Dùng cho các trường hợp phù nề, đàm nhiều, táo bón, bí tiểu, bế kinh.

Sắc uống. Đào nhân vị đắng ngọt, tính bình, vào kinh tâm và can. Đào chín ướp đường:   đào chín gọt vỏ, thái lát bỏ hạt, dùng đường trắng ướp ăn tráng miệng sau bữa ăn. Dùng cho các trường hợp bế kinh, trưng hà, xúc huyết, ứ huyết, trúng thương đụng dập, tê thấp, táo bón. Tuốt luốt nghiền thành bột mịn, làm mật hoàn. Dùng cho trường hợp mất ngủ hay quên lẫn, đau lưng, sỏi đường tiết niệu.

Sắc uống. Trị ruột bị ung nhọt, đau bụng, ỉa táo. Nước gừng mật ong trộn bột hạnh nhân đào nhân:  đào nhân 30g, hạnh nhân 15g nghiền nát trộn với nước gừng và mật ong một lượng thích hợp cho ăn. Đào chín ăn tươi:  đào rửa sạch, gọt vỏ, mỗi lần 1 - 3 quả, ngày ăn 2 - 3 lần. Một số menu chữa bệnh có đào    Đào chín hoặc mứt đào khô:  ngày ăn 1 - 4 trái để dưỡng da.

Nguyễn Đức Quang. Sắc nước, hòa với nước giải trẻ con hoặc đun nóng với rượu để uống. Tác dụng sinh tân nhuận trường, hoạt huyết, tiêu tích. Trừ ứ, giảm đau:  đào nhân 12g, miết trùng 6g, kinh giới 12g, đại hoàng 12g, xuyên khung 6g, đương quy 12g, quế tâm 6g, cam thảo 4g, bồ hoàng 8g.