Kỳ họp thứ năm, Quốc hội khóa XIII đã sửa đổi một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật Thuế giá trị gia tăng nhằm miễn giảm thuế cho một số đối tượng để kích thích thị trường và giảm khó khăn cho DN
Đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Hai,tình hình nợ xấu chưa được cải thiện đáng kể, nên dòng tín dụng vẫn bị tắc nghẽn, nền kinh tế không thu nhận được vốn.
Chính sách tiền tệ giao hội vào đích kìm giữ lạm phát và ổn định tỷ giá, nên dù có đến sáu lần giảm lãi suất huy động tiền gửi; hạ lãi suất cho vay; song song tập hợp xử lý thanh khoản của nhà băng thương nghiệp (NHTM) phê duyệt việc "bơm" thêm tiền cho hệ thống bằng các dụng cụ của nhà băng quốc gia; song nhìn chung nền kinh tế vẫn rơi vào tình trạng "thừa tiền nhưng thiếu vốn".
Ảnh: TRẦN HẢI Nhìn từ kinh tế vĩ mô Bên cạnh những tồn đọng từ cơ cấu kinh tế tích trữ nhiều năm trước chưa được giải quyết cơ bản, nền kinh tế nước ta xuất hiện nhiều khó khăn mới cùng với tác động rất bất ổn của thị trường thế giới.
Mang lại kết quả một mực, nhưng chưa kích thích tăng được tổng cầu của nền kinh tế.
Rứa trên đã mang lại những kết quả cố định. Ba,khả năng kéo giảm lãi suất cho vay không nhiều; khó đáp ứng sự mong đợi của DN, do hoạt động kém hiệu quả của hệ thống NHTM lẫn DN.
Ở đây đòi hỏi sự kết hợp chặt đẹp, nhịp nhàng giữa chính sách tiền tệ - tài khóa và qua đó huy động các nguồn lực bổ sung cho nhau nhằm đảm bảo tổng đầu tư xã hội.
Vì vậy,đây là thời khắc hợp, là thời cơ để đưa ra những quyết sách mạnh mẽ, tạo bước ngoặt làm thay đổi tình hình. Nếu lạm phát kỳ vọng cả năm là 7%, thì lãi suất vay trung hạn theo mức phổ quát bây giờ còn rất cao (trừ nguyên tố CPI vẫn ở mức 5-6%).
Chính sách tài khóa phần nào nới lỏng đầu tư công theo mức bội chi ngân sách, thực hành giải ngân và phát hành trái phiếu trong kế hoạch được Quốc hội cho phép; tăng lương cơ bản vào 1-5-2012; thực hiện biện pháp dãn thuế. " Với tốc độ tăng GDP khoảng 5,5% và kiểm soát CPI dưới 8% (Chính phủ đề ra khoảng 6,5%).
Tổng cầu của nền kinh tế giảm nhanh; miêu tả qua mức tăng GDP quý I - 2012 có 4% (chỉ bằng khoảng 2/3 mức tăng của quý IV - 2011). Có sự kết hợp giữa các chính sách tiền tệ, tài khóa, thị trường hóa giá cả một số loại dịch vụ công mà quốc gia đang còn quy định giá, và chính sách ngoại thương.
Cần một chương trình trung hạn Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cho thấy những dấu hiệu bất ổn được cải thiện so với các năm trước; đặc biệt là nguy cơ lạm phát cao đã được ngăn chặn.
Các chính sách tài khóa, tiền tệ và tương trợ thị trường được vận dụng phù hợp với thực tại tình hình, nhưng do sự thay đổi chính sách liên tiếp mang tính đối phó trong nhiều năm, khiến thị trường mất phương hướng dài hạn; nền kinh tế đi vào giai đoạn bê trệ.
Khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp vẫn còn khó khăn, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây là kết quả trổi nhất trong mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô. Có thể nói, trong ngắn hạn, lạm phát không còn là "con ngựa bất kham".
DNNN không làm thay thị trường, nhưng là một lực lượng rất quan trọng bổ khuyết những khuyết tật của thị trường.
Thứ hai,từ chính sách "lạm phát đích" nêu trên, chính sách tiền tệ và tài khóa phải phục vụ cho mục tiêu huy động tổng đầu tư tầng lớp từ 30 -32% GDP trong ba năm tới. Thứ tư, lồng ghép vào các nhóm giải pháp trên trong Chương trình trung hạn cần có sự đột phá tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp Nhà nước (DNNN).
Thứ ba, trước mắt trong hai năm 2013 và 2014 cần bạo dạn tăng công chi dưới nhiều hình thức để kích thích tăng tổng cầu. Cụ thể, tăng trần bội chi ngân sách so với mức 4,8% GDP bây chừ; phát hành trái khoán Chính phủ, ngoài định mức 45 nghìn đồng/năm nhằm tính sổ nợ đọng xây dựng căn bản và các công trình xây dựng dang dở.
Tốc độ tăng CPI từ hơn 18% năm 2011 đã kéo giảm xuống còn 6,81% năm 2012; trong bảy tháng đầu năm nay, chỉ tăng 2,68% và dự kiến cả năm 2013 tăng khoảng 6,5%.
Một khi nền kinh tế thu nạp được vốn tốt hơn, có điều kiện để tăng tín dụng, thì sẽ giảm đầu tư công, khuyến khích đầu tư tư nhân, thăng bằng mức nợ công như Quốc hội đã cho phép.
Mục tiêu lớn nhất là, nền kinh tế Việt Nam phải tận dụng nhịp của quá trình hội nhập để từ tuổi 2016 - 2020 có thể đạt được tốc độ tăng trưởng, như đã từng đạt được trong thời đoạn 1991 - 1996 và giai đoạn 2001 - 2007 (nghĩa là khoảng 7- 8%/năm trong vòng vài thập niên).
Thực hiện các đích trên, Chính phủ đang có nhiều cầm cố tạo niềm tin cho thị trường thông qua "gói giải pháp hỗ trợ thị trường" nhằm giải quyết hàng tồn kho; xử lý nợ xấu và tháo gỡ khó khăn cho thị trường BĐS. Bước vào năm 2013, nền kinh tế tiếp tục đối mặt với những khó khăn: Một,mặc dù CPI bảy tháng đầu năm chỉ tăng 2,68%, nhưng nguy cơ lạm phát vẫn "rình rập" khi mà nguyên nhân bên trong của nền kinh tế chưa được giải quyết.
Như vậy sẽ không kích thích được các DN đang có thị trường đầu tư mở mang và có nguy cơ làm tăng nợ xấu đối với những DN đang chũm phục hồi sản xuất. Khi đó, việc xử lý nợ xấu của NHTM cũng sẽ khó khăn. Chương trình phục hồi kinh tế trung hạn sẽ kết thúc tình trạng ban hành các giải pháp theo kiểu "ăn đong" như vừa qua; chuyển chính sách từ khiên chế lạm phát thụ động sang lạm phát chủ động.
Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để vực dậy nền kinh tế, tạo cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch 5 năm 2016 - 2020 theo hướng hăng hái, trong đó thực hành đích tái cơ cấu gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Đích kinh tế tổng quát năm 2013 là "Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô; lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm 2012.
TS TRẦN DU LỊCH. Ngày 7-1-2013, Chính phủ đã ban hành quyết nghị 01 và Nghị quyết 02. Ứng dụng thuế suất thu nhập DN 22% từ tháng 1-2014 và 20% từ tháng 1-2016 để khuyến khích DN mở rộng đầu tư, giảm 50% thuế VAT cho nhà giá thấp. Hiệu quả dùng nguồn lực này là yếu tố chủ đạo trong quá trình tái cơ cấu kinh tế.
Vả, tái cơ cấu DNNN là nhiệm vụ của Chính phủ, chứ không phải của từng đơn vị. Đặt đúng tầm như vậy chúng ta mới có thể thực hiện thành công việc tái cơ cấu DNNN theo ý thức quyết nghị Trung ương 3 (khóa XI). Bốn,những nắm làm ấm thị trường BĐS chưa thể mang lại kết quả, nên thanh khoản của thị trường này khó được cải thiện.
Theo đó, cần một Chương trình trung hạn hồi phục kinh tế dựa trên các nội dung chính sau đây: Thứ nhất,chương trình này kéo dài đến hết 2015, trọng tâm là thực hiện chính sách "lạm phát đích", với mức tăng CPI khoảng 7% mỗi năm trong ba năm 2013 - 2015 và dưới 5% trong các năm tiếp theo.
Mức lạm phát đích sẽ tạo dư địa cho chính sách tài khóa và tiền tệ cũng như lộ trình điều chỉnh giá cả dịch vụ, hàng hóa công cộng, mà không gây ra lạm phát do hoài đẩy. Trên quan điểm đó, sẽ không thể thành công nếu tái cơ cấu từng tập đoàn, tổng công ty riêng rẽ, mà phải thực hiện trên tổng thể lực lượng DNNN hiện hữu.
Ngay từ đầu năm 2012, Chính phủ đã chủ trương tiếp tục tập kết các giải pháp ưu tiên kềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô và đảm bảo an sinh từng lớp. Kỳ vọng lạm phát cao, nên trên thực tại vẫn tiếp chuyện thực hành chính sách tiền tệ thắt chặt theo tinh thần quyết nghị 11 (ứng dụng từ quý I - 2011).
Chúng ta tinh thần việc phải bảo đảm an toàn của nợ công, nhưng trong tình thế bây chừ, chính đầu tư công là giải pháp có tác động nhanh nhất để kích thích sự tăng tổng cầu của nền kinh tế, khi chính sách tiền tệ đang có tác dụng hạn chế. Từ quý II - 2012, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đang bình phục, dù rất chậm. Tình trạng thừa tiền thiếu vốn còn kéo dài. Tin cậy vào sự điều hành linh hoạt của Chính phủ, các công trình trọng điểm tiếp kiến khai triển đảm bảo tiến độ.
Từ quý II - 2012, Chính phủ triển khai quyết nghị 13 nhằm kích thích tăng tổng cầu và hỗ trợ thị trường với các biện pháp như dãn thời kì nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho một số đối tượng; hoãn nộp tiền dùng đất năm 2011 cho doanh nghiệp (DN) bất động sản (BĐS).