Ngoài các tác động hăng hái đến nền kinh tế và TTCK như các giải pháp nới lỏng hạn mức đầu tư nước ngoài khác, NVDR được kỳ vọng sẽ tạo một lực đẩy giúp tăng cường hình ảnh của TTCK Việt Nam trong cộng đồng đầu tư quốc tế, góp phần cải thiện chất lượng TTCK phê duyệt việc tác động đến hai tiêu chí quan yếu trong đánh giá mức độ quyến rũ của một TTCK bao gồm: Thứ nhất, quy mô vốn hóa NĐTNN có thể đầu tư
Đây là một trong các tiêu chí hàng đầu được dùng bởi NĐT quốc tế và các tổ chức quốc tế (như tổ chức tính toán chỉ số) khi quyết định tuyển lựa nhà nước đầu tư hoặc xếp nhóm TTCK. LĐối với những ngành có thể mở cửa dần hoặc mở cửa hoàn toàn đối với nước ngoài, NVDR là một sản phẩm có vai trò “bước đệm” khôn cùng cấp thiết trong lịch trình.
Do đó, có thể phát sinh 3 vướng mắc bao gồm: (1) ảnh hưởng đến việc triệu tập đại hội đồng cổ đông (lần 1 là 65%); (2) ảnh hưởng đến các mốc biểu quyết nhạy cảm (tỉ dụ làm tăng tỷ lệ biểu quyết một số cổ đông vượt 35% có quyền phủ quyết); (3) tạo ra quan ngại khối NĐTNN nắm quyền bỏ phiếu nhiều hơn trong nước (nếu NVDR chiếm 10%, thì tỷ lệ bỏ thăm là 49/90 cho NĐT nước ngoài, 41/90 cho NĐT trong nước).
Những vướng mắc về quyền biểu quyết có thể được giảm thiểu bằng các giải pháp như phân bổ lại quyền biểu quyết hoặc chỉnh sửa Luật Doanh nghiệp (dự kiến được thay đổi trong thời gian vài năm tới). Thứ hai, tính thanh khoản. Tại thời điểm 31/12/2012, giá trị vốn hóa của TTCK Việt Nam tại cả hai sàn là 41,7 tỷ USD, nhỏ hơn nhiều lần so với 460 tỷ USD của Thái Lan, 427 tỷ USD của Indonesia và 186 tỷ USD của Philippines.
Lời kết Tuy vẫn còn một số vướng mắc, nhưng với những lợi ích thiết thực cho TTCK nói riêng và nền kinh tế nói chung, NVDR là một trong những giải pháp thích hợp TTCK Việt Nam trong thời đoạn hiện nay. Thêm vào đó, NVDR là một giải pháp mà cơ quan quản lý và các sàn giao tiếp có thể hoàn toàn chủ động khai triển. Trong khi đó, nhu cầu của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) đối với thị trường Việt Nam vẫn còn khá lớn, đặc biệt là đối với các cổ phiếu được đánh giá tốt và triển vọng, họ phải mua chuẩn y các giao tiếp ngoài sàn với giá luôn cao hơn giá trên sàn từ 20 - 30%.
Việc dự của các tổ chức nước ngoài (quỹ ETF, CTCK…) vào thị trường cũng bởi thế mà thuận lợi hơn. Với quy mô vốn hóa quá nhỏ bé so với các nước trong khu vực Đông Nam Á, trong khi, tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng thấp, cộng với giới hạn sở hữu đối với NĐTNN càng làm cho thị trường Việt Nam trở nên kém vấn NĐT quốc tế.
Ngoài ảnh hưởng từ nền kinh tế nói chung, việc chưa đẩy mạnh lôi cuốn vốn nước ngoài vào thị trường cũng là một hạn chế.
Ngày nay, Việt Nam được xếp vào nhóm thị trường nguyên sơ, trong khi nhiều nước khác trong khu vực Đông Nam Á đã được đưa vào nhóm thị trường mới nổi. NVDR vừa giúp NĐTNN có thể dự đầu tư vào các cổ phiếu đã chạm trần sở hữu nước ngoài, nhưng vẫn bảo đảm quy định về giới hạn sở hữu nước ngoài đối với cổ phiếu. NVDR có thể được dùng như một “thuốc thử” trước khi “trực tiếp” nâng trần sở hữu nước ngoài tại Việt Nam NVDR đáp ứng nhu cầu Hiện tại của TTCK Việt Nam thu hút sự tham dự của các tổ chức đầu tư quốc tế chuyên nghiệp nằm trong chiến lược phát triển mà TTCK Việt Nam hiện đang hướng tới, để có thể thúc đẩy xây dựng được một cơ sở NĐT chuyên nghiệp, lành mạnh.
Điều này có được là do chỉ tồn tại một sổ lệnh (lệnh giao dịch NVDR được khớp trong cùng sổ lệnh với lệnh giao tế cổ phiếu) và khả năng chuyển đổi NVDR thành cổ phiếu khi cổ phiếu còn room nước ngoài.
Theo mô hình Thái Lan, Tổ chức phát hành NVDR sẽ không tham gia họp đại hội đồng cổ đông hay bỏ phiếu.
Trong đó, có một bộ phận NĐTNN đáng kể không quan tâm đến quyền biểu quyết, tham dự đầu tư chỉ nhằm mục đích thu lợi nhuận từ quyền lợi tài chính và biến động giá cổ phiếu. Giải pháp NVDR đáp ứng được một cách thỏa đáng nhu cầu của nhóm NĐTNN này.
Một số vướng mắc khi triển khai NVDR tại Việt Nam Với mô hình giao du NVDR đã điều chỉnh cho hợp với điều kiện Việt Nam (đăng trong kỳ 2), vẫn còn đó một số vướng mắc cả về mặt tâm lý lẫn nghiệp vụ cần phải được tháo gỡ. NVDR là sản phẩm “bước đệm” an toàn Nới lỏng hạn mức đầu tư nước ngoài trong TTCK Việt Nam là bước đi cấp thiết và thế tất trong quá trình Việt Nam phát triển TTCK và hội nhập thế giới.
NVDR - Một sáng kiến thành công của TTCK Thái Lan Kỳ 2: giao dịch, tính sổ bù trừ NVDR TTCK Việt Nam đã xuất hiện dấu hiệu chững lại, khi thời đoạn 2011 - 2012, giá trị giao du so với giá trị vốn hóa chỉ còn 22%, so với mức 50 - 80% trong thời kì 2008 - 2010.
Ngoại giả, NVDR có thể được phát hành có hạn mức trong tuổi đầu và về lâu dài có thể không bị giới hạn trên số lượng cổ phiếu niêm yết.
Do đó, NVDR có thể triển khai trên tuốt các cổ phiếu niêm yết thuộc nhiều ngành khác nhau. Hai nguyên tố này giúp NĐTNN có thể tiếp cận sâu rộng các cổ phiếu niêm yết của Việt Nam.
NVDR giúp làm tăng quy mô vốn hóa NĐTNN có thể đầu tư, từ đó giúp tăng cường hình ảnh TTCK Việt Nam trong cộng đồng đầu tư quốc tế.
Ưu điểm nổi trội nhất của NVDR là tính thanh khoản, biểu thị ở 2 giác độ: (1) tính thanh khoản cao của chính bản thân sản phẩm NVDR; (2) giúp gia tăng đáng kể thanh khoản của cổ phiếu cơ sở. NVDR không phụ thuộc vào tình hình kinh tế, cụ thể là kế hoạch tăng vốn của doanh nghiệp.
Mức vốn hóa NĐTNN có thể đầu tư phải đạt được đến một quy mô cố định thì mới lôi cuốn được NĐT quốc tế. Trong tuổi đầu khai triển, NVDR có thể vận dụng hạn mức phát hành, ví dụ 20% trên tổng số lượng cổ phiếu niêm yết, để không ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức thành công đại hội đồng cổ đông. NVDR có thể được dùng như một “thuốc thử” trước khi “trực tiếp” nâng trần sở hữu nước ngoài.
Việc cần phải cân nhắc là nên nới lỏng theo lịch trình như thế nào (lĩnh vực áp dụng, thời gian triển khai và hình thức thực hiện).
Trong điều kiện Việt Nam vẫn còn trần sở hữu 49% hoặc nới lỏng hơn, việc nâng room nước ngoài một cách “gián tiếp” cho tất cả ngành duyệt y NVDR có những ưu điểm sau: lĐối với những ngành cần có sự bảo hộ của giới hạn trần sở hữu nước ngoài, NVDR là một giải pháp an toàn, hiệp với chính sách của cơ quan quản lý.